thực đơn

đóng

Phần chính bắt đầu từ đây.

Chủ đề khảo sát thống kê công nghiệp năm 2000 - Nhìn lại 50 năm qua -

Cập nhật lần cuối vào ngày 11 tháng 7 năm 2024

``Khảo sát thống kê công nghiệp'' là một cuộc khảo sát độc lập về ngành công nghiệp tiếp nối cuộc ``Khảo sát thống kê nhà máy'', được bắt đầu vào năm 1907 và được liệt kê trong Phân loại công nghiệp tiêu chuẩn Nhật Bản là số liệu thống kê được chỉ định số 10 dựa trên Thống kê Đạo luật năm 1942. Nó được đổi thành "Điều tra công nghiệp" nhắm vào ngành sản xuất, và từ năm 1952 nó được đổi tên thành "Điều tra thống kê công nghiệp" cho đến ngày nay.
Năm 2000 cũng là một bước ngoặt, chúng ta sẽ nhìn lại nửa thế kỷ công nghiệp ở Thành phố Yokohama từ khi bắt đầu Cuộc Điều tra Thống kê Công nghiệp đến cuộc Điều tra lần thứ 50 vào năm 2000.

(1) Xu hướng 50 năm ở các chỉ số chính

Số lượng cơ sở đã tăng 2,6 lần trong 50 năm và số lượng nhân viên đã tăng 1,5 lần.

So sánh về số cơ sở, số lượng nhân viên, giá trị lô hàng... năm 2000 và 50 năm trước năm 1950, số cơ sở năm 1950 là 1.764, nhưng đến năm 2000 số cơ sở tăng lên 1.764; 4.651, tăng khoảng 2,6 lần.
Ngoài ra, số lượng nhân viên là 87.995 vào năm 1952, nhưng đã tăng lên 135.667 vào năm 2000, tăng khoảng 1,5 lần.
Giá trị lô hàng là 111,4 tỷ yên vào năm 1950, nhưng đã tăng lên 5,313 nghìn tỷ yên vào năm 2000, tăng khoảng 48 lần, bất chấp biến động giá cả.
So sánh về số lượng cơ sở, số lượng lao động, lượng hàng vận chuyển… với thời kỳ đỉnh cao 2000 và 50 năm qua, số lượng cơ sở đã giảm tới 73,4% thời kỳ cao điểm (1988, 6335 cơ sở). Số lượng nhân viên đã giảm xuống còn 55,5% so với thời kỳ đỉnh cao (244.415 người vào năm 1972).
Ngoài ra, giá trị lô hàng đã giảm xuống còn 81,1% so với thời kỳ đỉnh cao (6.550,8 tỷ Yên năm 1991). (Hình 1, Hình 2)

Từ công nghiệp vật liệu cơ bản đến công nghiệp gia công, lắp ráp

Ba loại ngành dựa trên giá trị lô hàng, v.v. ※Nhìn vào sự thay đổi tỷ lệ cơ cấu theo loại, cơ cấu của các ngành công nghiệp vật liệu cơ bản, công nghiệp chế biến, lắp ráp và các ngành liên quan đến lối sống năm 1952 lần lượt là 46,2%, 32,8% và 20,9%, trong đó ngành công nghiệp vật liệu cơ bản là lớn nhất. Tuy nhiên, đến năm 1952, tỷ trọng của ngành công nghiệp chế biến, lắp ráp đã tăng lên 35,3%, lần đầu tiên vượt tỷ trọng của ngành công nghiệp vật liệu cơ bản (33,7%).
Các ngành công nghiệp chế biến và lắp ráp chiếm 40,9% vào năm 1955, lần đầu tiên vượt quá 40% và vẫn là trung tâm sản xuất ở Yokohama cho đến năm 2000 (51,3%).
Hơn nữa, các ngành liên quan đến đời sống đạt đỉnh 31,0% vào năm 1952 và tăng lên 16,4% vào năm 2000. (Hình 3

※Lưu ý: Trong Hình 1, 2 và 3, số liệu của năm 1960 và 1960 cũng như tổng giá trị gia tăng năm 1965 không được hiển thị vì không có số liệu nào cho phép so sánh theo chuỗi thời gian.


※3 loại ngành

  • Công nghiệp vật liệu cơ bản: Gỗ, sản phẩm giấy, hóa chất, dầu mỏ, nhựa, cao su, gốm sứ, thép, kim loại màu, sản phẩm kim loại
  • Công nghiệp gia công, lắp ráp: Máy móc tổng hợp, máy điện, máy vận tải, máy móc chính xác
  • Các ngành liên quan đến đời sống: Thực phẩm, đồ uống, dệt may, quần áo, đồ nội thất, in ấn, da thuộc, v.v.

Hình 1 Thay đổi về số lượng doanh nghiệp và nhân viên (doanh nghiệp có 4 nhân viên trở lên)
Hình 1 Thay đổi về số lượng cơ sở và số lượng nhân viên (cơ sở có 4 nhân viên trở lên)

Hình 2 Thay đổi giá trị lô hàng sản xuất, v.v. và tổng giá trị gia tăng (cơ sở kinh doanh có 4 nhân viên trở lên)
Hình 2 Những thay đổi về giá trị lô hàng sản phẩm được sản xuất, v.v. và tổng giá trị gia tăng (cơ sở có 4 nhân viên trở lên)

Hình 3 Hình ảnh về xu hướng vận chuyển hàng hóa sản xuất theo ba loại ngành (cơ sở có 4 nhân viên trở lên)
Hình 3 Thay đổi giá trị vận chuyển của hàng hóa sản xuất theo ba loại ngành (cơ sở có 4 nhân viên trở lên)


(2) Xu hướng 50 năm ở 4 quận của thành phố

bản đồ quận 4

Khu vực thành phố Yokohama được chia thành bốn quận: "Quận ven sông phía Bắc", "Quận ven sông phía Nam", "Quận nội địa phía Bắc" và "Quận nội địa phía Nam" và các chỉ số chính của ngành sản xuất là số lượng cơ sở, số lượng của nhân viên và giá trị lô hàng. Chúng ta hãy nhìn vào các xu hướng trong 50 năm qua về tổng giá trị gia tăng và tổng giá trị gia tăng.

[Khu vực bờ sông phía Bắc]
Phường Tsurumi, Phường Kanagawa, Phường Nishi
[Khu vực bờ sông phía Nam]
Phường Naka, Phường Isogo, Phường Kanazawa
[Khu vực nội địa phía Bắc]
Phường Kohoku, Phường Midori, Phường Aoba, Phường Tsuzuki
[Khu vực nội địa phía Nam]
Phường Minami, Phường Konan, Phường Hodogaya, Phường Asahi,
Phường Totsuka, Phường Sakae, Phường Izumi, Phường Seya

Hiện trạng số lượng cơ sở

So sánh số cơ sở năm 1952 và 2000 ở mỗi quận trong 4 quận của thành phố, năm 1952, khu vực ven biển phía Bắc có 814 cơ sở (tỷ lệ cơ sở 46,1%), ven biển phía Nam có 276 cơ sở (5,6%), phía Bắc. khu vực nội địa có 60 cơ sở (3,4%), khu vực nội địa phía Nam có 614 cơ sở (34,8%), nhưng năm 2000, khu vực ven biển phía Bắc có 931 cơ sở (tỷ lệ thành phần 20,0%), khu vực ven biển phía Nam. khu vực nội địa phía Bắc có 1.872 cơ sở (40,2%), khu vực nội địa phía Nam có 1.230 cơ sở (26,4%);
Nhìn vào xu hướng số lượng cơ sở kinh doanh ở vùng nội địa phía Bắc, chúng ta thấy số lượng cơ sở kinh doanh tăng nhanh từ cuối những năm 1950 và từ năm 1981 đến đỉnh điểm là năm 1990, là lớn nhất trong bốn nước. huyện. Nó có số lượng cơ sở lớn nhất. (hinh 4

hinh 4
Hình 4 Thay đổi về số lượng cơ sở kinh doanh theo 4 quận trong thành phố (cơ sở kinh doanh có từ 4 nhân viên trở lên*)


※Lưu ý: Số liệu năm 1960 và 1960 cũng như số lượng cơ sở năm 1965 không được hiển thị vì không có số liệu nào cho phép so sánh chuỗi thời gian.

B Tình trạng số lượng nhân viên

So sánh số lượng lao động năm 1952 và 2000 ở bốn quận của thành phố, năm 1952, khu vực ven sông phía Bắc có 62.356 người (70,9%), và khu vực ven biển phía Nam có 8.438 người (9,6%). vùng ven biển phía Bắc có 2.143 người (2,4%) và vùng nội địa phía Nam có 15.058 người (17,1%), nhưng đến năm 2000, vùng ven biển phía Bắc có 27.283 người (tỷ lệ cơ cấu 20,1%) Vùng ven biển phía Nam có 24.604 người (18,1%). ), khu vực nội địa phía Bắc có 47.066 (34,7%), khu vực nội địa phía Nam có 36.714 (27,1%);
Số lượng nhân viên ở khu vực Northern Waterfront năm 2000 bằng 43,8% so với 50 năm trước (1950) và bằng 24,9% so với thời kỳ đỉnh cao (109.582* năm 1962). (Hình 5

Hình 5
Hình 5 Xu hướng số lượng lao động theo 4 quận trong thành phố (cơ sở kinh doanh có 4 nhân viên trở lên*)


※Lưu ý: Số liệu năm 1960 và 1960, cũng như số lượng nhân viên năm 1965, không được hiển thị vì không có số liệu nào cho phép so sánh chuỗi thời gian.

C. Tình trạng trị giá lô hàng sản xuất, v.v.

So sánh số tiền vận chuyển năm 1952 và 2000 của bốn quận của thành phố, năm 1952, khu vực bờ sông phía bắc có 92,2 tỷ yên (tỷ lệ cơ cấu: 82,7%) và khu vực bờ sông phía nam có 5,7 tỷ yên (5,1%) ), khu vực nội địa phía Bắc là 1,5 tỷ yên (1,3%), khu vực nội địa phía Nam là 12,1 tỷ yên (10,9%), nhưng năm 2000, khu vực ven biển phía Bắc là 1.044,3 tỷ yên (cơ cấu (19,7% so với năm trước), khu vực ven biển phía nam là 1.642,7 tỷ yên (30,9%), khu vực nội địa phía bắc là 1.707,7 tỷ yên (32,1%) và khu vực nội địa phía nam là 918,3 tỷ yên (17,3%). khu vực thành phố giảm 63,0 điểm. (Hình 6

Hình 6
Hình 6 Thay đổi giá trị vận chuyển hàng sản xuất theo 4 quận trong thành phố (cơ sở kinh doanh có 4 nhân viên trở lên*)


※Lưu ý: Số liệu năm 1960 và 1960, số lượng lô hàng năm 1965, v.v. không được hiển thị vì không có số liệu nào cho phép so sánh chuỗi thời gian.

Hiện trạng tổng giá trị gia tăng

So sánh tổng giá trị gia tăng năm 1952 và 2000 của bốn quận của thành phố, năm 1952, khu vực bờ sông phía bắc có 22,3 tỷ yên (tỷ lệ cơ cấu 78,7%) và khu vực bờ sông phía nam có 1,9 tỷ yên (6,6%). ), khu vực nội địa phía Bắc chiếm 500 triệu yên (1,8%), và khu vực nội địa phía Nam chiếm 3,6 tỷ yên (12,8%), nhưng năm 2000, khu vực ven biển phía Bắc chiếm 400,3 tỷ yên (tỷ lệ cơ cấu 18,2). %), vùng ven biển phía Nam 549 tỷ Yên (25,0%), vùng nội địa phía Bắc 875,5 tỷ Yên (39,9%), vùng nội địa phía Nam 370,3 tỷ Yên (16,9%) và vùng nội địa phía Bắc tăng 38,1 điểm, chiếm khoảng 40% tổng dân số của thành phố vào năm 2000. (Hình 7

Hình 7
Hình 7 Xu hướng về tổng giá trị gia tăng theo bốn quận trong thành phố (cơ sở kinh doanh có bốn nhân viên trở lên*)


※Lưu ý: Số liệu năm 1960 và 1960 cũng như tổng giá trị gia tăng năm 1965 không được hiển thị vì không có số liệu nào cho phép so sánh chuỗi thời gian.


(3) Thực trạng số lượng cơ sở theo 4 quận, huyện trên địa bàn thành phố và 3 loại hình ngành nghề

Ngành công nghiệp sản xuất của Yokohama đã thay đổi đáng kể trong 50 năm qua. Nhìn vào sự thay đổi về tỷ trọng cơ cấu số cơ sở theo ngành, tỷ trọng các ngành liên quan đến lối sống đang giảm dần, trong khi tỷ trọng của các ngành công nghiệp chế biến, lắp ráp ngày càng tăng. Hơn nữa, theo khu vực, trong khi tỷ lệ này giảm ở các khu vực như khu vực ven biển phía Bắc thì tỷ lệ này lại tăng lên ở khu vực nội địa phía Bắc.
Liên quan đến những tình huống này, hãy chia số cơ sở năm 2000 và 50 năm trước, 1950, thành “4 quận thành phố” và “3 loại hình ngành nghề”.

Tỷ lệ cơ cấu 3 loại hình công nghiệp phân theo 4 quận, thành phố A……Tỷ trọng công nghiệp chế biến, lắp ráp ngày càng tăng ở khu vực nội địa phía Bắc.

Nhìn vào tỷ lệ cơ cấu số cơ sở thuộc 3 loại hình công nghiệp ở mỗi quận trong 4 quận của thành phố, năm 1952, vùng ven sông phía Bắc có tỷ trọng công nghiệp vật chất cơ bản lớn nhất với 36,2%, lớn nhất trong 3 loại hình. Ở các huyện khác, tỷ lệ cơ sở kinh doanh các ngành nghề liên quan đến lối sống cao nhất. Năm 2000, tỷ lệ cơ sở trong ngành công nghiệp chế biến, lắp ráp thay vì các ngành liên quan đến đời sống tăng lên ở tất cả các vùng, đặc biệt là khu vực nội địa phía Bắc, chiếm 40,9% tổng ngành công nghiệp chế tạo. (Hình 8

Hình 8 Tỷ lệ cơ cấu số lượng cơ sở thuộc 3 loại ngành nghề chia theo 4 quận trong thành phố (cơ sở có từ 4 nhân viên trở lên)

Hình 8
[1952]

Hình 9
[2000]


Tỷ lệ cơ cấu theo 3 loại ngành và 4 quận, huyện trên địa bàn thành phố……Từ vùng ven biển phía Bắc đến vùng nội địa phía Bắc

Nhìn vào tỷ lệ cơ cấu số cơ sở trên địa bàn 4 quận của thành phố theo 3 loại ngành nghề, năm 1951, vùng ven sông phía Bắc chiếm 58,9% ngành công nghiệp vật chất cơ bản và 63,7% ngành công nghiệp chế biến, lắp ráp, chiếm 58,9. % ngành công nghiệp vật liệu cơ bản và 63,7% ngành công nghiệp chế biến, lắp ráp, so với toàn thành phố Yokohama. Nó cũng chiếm 46,1%, lớn nhất trong 4 quận. Năm 2000, vùng nội địa phía Bắc có tỷ trọng công nghiệp vật liệu cơ bản lớn nhất với 47,8% và công nghiệp chế biến, lắp ráp là 47,4%. Ngoài ra, tỷ lệ cơ sở kinh doanh ở khu vực nội địa phía Bắc là 40,2% trên tổng số thành phố Yokohama, trước đây chỉ khoảng 3%, nhưng có thể thấy rằng mức độ tập trung của các cơ sở kinh doanh ở khu vực nội địa phía Bắc đã tăng lên đáng kể. . (Hình 9

Hình 9 Tỷ lệ cơ cấu số lượng cơ sở tại 4 quận của thành phố theo 3 loại ngành nghề (cơ sở có 4 nhân viên trở lên)

Hình 10
[1952]

Hình 11
[2000]


(4) 50 năm lịch sử công nghiệp ở thành phố Yokohama

A: Tăng trưởng đều đặn trên làn sóng tăng trưởng kinh tế cao (cuối thập niên 1950 đến giữa thập niên 1960)

Các ngành công nghiệp hiện đại như quay tơ, sản xuất thép và sản xuất thực phẩm đã được thành lập ở Yokohama sau khi cảng mở, nhưng các nhà máy lớn, chủ yếu là dầu mỏ và hóa chất, lần lượt được xây dựng trên vùng đất khai hoang được tạo ra từ cuối Thế chiến II. Thời đại Taisho và Khu công nghiệp Keihin lớn nhất Nhật Bản được hình thành.
Ngành công nghiệp chủ đạo ở Thành phố Yokohama vào cuối những năm 1945 là thép, đóng tàu, máy điện, dầu khí, v.v. tập trung vào các nhà máy lớn ở khu vực ven sông, nhưng ngành nhuộm địa phương của Yokohama cũng trải qua thời kỳ bùng nổ xuất khẩu.
Vào những năm 1950, các công ty bắt đầu đầu tư vào hiện đại hóa bằng cách nhập khẩu các công nghệ quan trọng từ nước ngoài và nền kinh tế Nhật Bản đã đạt được mức tăng trưởng kinh tế cao nhờ đầu tư vốn và xuất khẩu.
Tại thành phố Yokohama, nhờ tích cực thúc đẩy việc thu hút các nhà máy vào nội địa dựa trên Pháp lệnh thu hút nhà máy có hiệu lực từ ngày 16/4/1960, các cụm công nghiệp cũng đã được hình thành ở các khu vực nội địa như phường Kohoku trước đây và quận Kohoku trước đây. Phường Totsuka trước đây Trái đất được hình thành. Năm 1963, Khu công nghiệp Totsuka (giai đoạn một), khu phức hợp doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tiên của thành phố, được xây dựng. Trong khi đó, ở khu vực ven biển, Khu công nghiệp ven sông Vịnh Negishi và đất công nghiệp liên quan đến Bến tàu Honmoku đã được khai hoang và các công ty lớn trong ngành dầu khí, đóng tàu và máy móc điện đều được đặt tại đó.
Nhờ các biện pháp thu hút các nhà máy này, số lượng cơ sở kinh doanh, số lượng nhân viên, số lượng lô hàng, v.v. và tổng giá trị gia tăng của Thành phố Yokohama đã tăng lên, thúc đẩy làn sóng tăng trưởng kinh tế cao.
Ngoài ra, nhìn vào tỷ trọng xuất khẩu tại Thành phố Yokohama theo ba loại hình công nghiệp, ngành công nghiệp vật liệu cơ bản có tỷ trọng lớn nhất trong ba loại hình này, khoảng 40%, nhưng kể từ đầu những năm 1930, trong những năm gần đây, ngành công nghiệp chế biến và lắp ráp đã vượt quá các ngành công nghiệp vật liệu cơ bản và tỷ trọng ngày càng tăng. (Hình 1Hình 2Hình 3

Sự phát triển đáng kể tập trung vào công nghiệp chế biến và lắp ráp (giữa những năm 1960 đến cuối những năm 1970)

Từ giữa những năm 1960, các ngành công nghiệp vật liệu cơ bản sử dụng nhiều tài nguyên như thép, vốn là ngành công nghiệp cốt lõi của Nhật Bản, bắt đầu phải hứng chịu giá nguyên liệu thô và năng lượng tăng vọt do cuộc khủng hoảng dầu mỏ và sự sụt giảm tương ứng của nhu cầu nội địa. kết quả là tỷ lệ phần trăm giảm xuống. Mặt khác, các ngành công nghiệp chế biến, lắp ráp, chủ yếu liên quan đến ô tô và máy điện, nhanh chóng mở rộng xuất khẩu và đạt mức tăng trưởng cao nhờ khả năng cạnh tranh quốc tế.
Nhìn vào tình hình ở Yokohama trong giai đoạn này, nó tiếp tục phát triển đáng kể, tập trung vào các ngành công nghiệp chế biến và lắp ráp như máy điện và máy móc nói chung, tập trung ở khu vực nội địa, và số lượng cơ sở, số lượng lô hàng, và tổng giá trị gia tăng tiếp tục có xu hướng tăng lên kể từ những năm 1950. Tuy nhiên, số lượng nhân viên đã bắt đầu giảm sau khi đạt đỉnh điểm vào năm 1971 (244.415 người).
Ngoài ra, khi xem xét tỷ lệ lô hàng tại Thành phố Yokohama theo ba loại ngành, thành phần của ngành công nghiệp vật liệu cơ bản, công nghiệp chế biến và lắp ráp và ngành liên quan đến lối sống lần lượt là khoảng 30%, 40% và 10%. đang tiến triển. (Hình 1Hình 2Hình 3


C. Những thay đổi tăng giảm dường như gắn liền với những biến động kinh tế (cuối những năm 1970 đến 2000)

Kể từ cuối những năm 1980, nền kinh tế Nhật Bản rơi vào suy thoái do đồng yên mạnh do xuất khẩu sụt giảm do điều chỉnh tỷ giá khiến đồng yên tăng giá đáng kể sau Hiệp định Plaza vào tháng 9 năm 1985. Trong bối cảnh phụ thuộc nhiều vào nhu cầu bên ngoài, ngành sản xuất chuyển sang nhu cầu trong nước, tăng giá trị gia tăng cho sản phẩm và tìm cách đa dạng hóa hoạt động kinh doanh và mở rộng ra quốc tế. Sự suy thoái của đồng yên mạnh đã chạm đáy vào tháng 11 năm 1985, và nền kinh tế Nhật Bản sau đó bước vào kỷ nguyên Heisei, nhưng vào đầu kỷ nguyên Heisei, nó đã trải qua sự sụp đổ của bong bóng. Ngoài các yếu tố mang tính chu kỳ, ngành sản xuất còn phải đối mặt với những thay đổi về cơ cấu môi trường như suy thoái kinh tế dài hạn sau khi nền kinh tế bong bóng vỡ, việc di dời các cơ sở sản xuất ra nước ngoài và sự rút lui của ngành công nghiệp trong nước cũng như việc đồng yên tiếp tục tăng giá. .
Nhìn vào tình hình ở Thành phố Yokohama trong thời kỳ này, số lượng nhân viên tiếp tục giảm và số lượng cơ sở kinh doanh vốn đã tăng đều đặn cho đến thời điểm đó bắt đầu giảm sau khi đạt đỉnh điểm vào năm 1988 (6.335 cơ sở kinh doanh). Ngoài ra, số lượng lô hàng, v.v. và tổng giá trị gia tăng đã tăng đều đặn cho đến thời điểm này, nhưng chúng bắt đầu giảm do các yếu tố như sự suy thoái của đồng yên mạnh vào khoảng năm 1985 đến 1985. Sau đó, chúng ta bước vào nền kinh tế bong bóng từ năm 1985 đến năm 1990, và lượng hàng hóa ở Yokohama đạt mức cao nhất mọi thời đại vào năm 1991 (6,5508 nghìn tỷ yên). Sau đó, có sự suy giảm lớn sau khi bong bóng vỡ, tiếp theo là giai đoạn phục hồi kinh tế từ năm 1994 đến năm 1994 khi các ngành liên quan đến xuất khẩu hoạt động tốt trong bối cảnh đồng yên yếu và cuộc khủng hoảng tài chính và tiền tệ châu Á từ năm 1998 đến năm 1998. 1998. Nền kinh tế đang biến động, dường như có liên quan đến những biến động kinh tế, chẳng hạn như sự sụt giảm trong lĩnh vực xuất khẩu. Từ năm 1999 đến năm 1999, thị trường có dấu hiệu phục hồi do nhu cầu liên quan đến CNTT (công nghệ thông tin) tăng trưởng.
Hơn nữa, nhìn vào tỷ lệ xuất khẩu tại Thành phố Yokohama theo ba loại ngành, ngành vật liệu cơ bản, trước đây nằm trong khoảng 30% đến 40%, đã giảm xuống mức 20%, trong khi ngành gia công và lắp ráp đã giảm. giảm xuống khoảng 20%. Ngành này đang có xu hướng ở mức 50%, tăng từ mức 57,0% vào năm 1991. (Hình 1Hình 2Hình 3

Thắc mắc tới trang này

Phòng Thông tin Thống kê, Vụ Tổng hợp, Cục Quản lý Chính sách

điện thoại: 045-671-4207

điện thoại: 045-671-4207

số fax: 045-663-0130

địa chỉ email: ss-chosa@city.yokohama.jp

Quay lại trang trước

ID trang: 673-596-451

thực đơn

  • ĐƯỜNG KẺ
  • Twitter
  • Facebook
  • Instagram
  • YouTube
  • thông minhNews